Lịch sử Chi Nắp ấm

Hình vẽ loài N. distillatoria của Plukenet trong sách Almagestum Botanicum năm 1696 của ông.

Những ghi chép sớm nhất về Nepenthes có từ thế kỷ 17. Năm 1658, thống sứ người Pháp Etienne de Flacourt tại Madagascar đã công bố miêu tả một loài nắp ấm trong công trình chuyên đề của ông Histoire de la Grande Isle de Madagascar. Nội dung như sau[19]:

Nó là loài cây cao khoảng 3 ft, mang ở phía ngọn chiếc lá dài 7 inch của nó, một bông hoa hay một quả rỗng tương tự như một chiếc bình nhỏ, với chiếc nắp riêng của nó, một cảnh tượng kỳ diệu. Có những cái bình màu đỏ và những cái bình màu vàng, với những cái bình màu vàng là lớn nhất. Các cư dân của đất nước này miễn cưỡng hái những bông hoa, nói rằng nếu ai đó hái chúng khi đi ngang qua, thì ngày đó sẽ không ngớt mưa. Dựa vào điều đó, tôi và tất cả những người Pháp khác đã hái chúng, nhưng trời không mưa. Sau cơn mưa thì nhưng bông hoa này chứa đầy nước, mỗi bông chứa tới một nửa cốc nước. [dịch từ tiếng Pháp trong Pitcher-Plants of Borneo][20]

Flacourt gọi loài cây này là Amramatico, lấy theo tên địa phương. Sau hơn một thế kỷ, loài này được chính thức miêu tả là N. madagascariensis[21].

Loài thứ hai được miêu tả là N. distillatoria, loài đặc hữu của Sri Lanka. Năm 1677, Bartholinus đã đề cập ngắn gọn về nó dưới tên gọi Miranda herba, tiếng La tinh để chỉ "cây cỏ kỳ lạ"[22]. Ba năm sau, thương nhân Hà Lan là Jacob Breyne nhắc tới loài này như là Bandura zingalensium, lấy theo tên gọi bản địa của loài này[23]. Bandura sau đó đã trở thành tên gọi được sử dụng phổ biến nhất ở phương Tây để chỉ các cây nắp ấm nhiệt đới, cho tới khi Linnaeus nghĩ ra từ Nepenthes năm 1737[20].

Nepenthes distillatoria được miêu tả một lần nữa vào năm 1683, lần này là bởi bác sĩ người Thụy Điển là H. N. Grimm[24]. Grimm gọi nó là Planta mirabilis destillatoria nghĩa là "cây chưng cất thần diệu", và là người đầu tiên minh họa loài nắp ấm nhiệt đới này một cách rõ ràng[20]. Ba năm sau, vào năm 1686, nhà tự nhiên học người Anh John Ray đã trích dẫn Grimm để nói rằng[25]:

Rễ hút hơi ẩm từ lòng đất, với sự hỗ trợ của các tia nắng, nó dâng lên chảy vào trong cây và sau đó chảy xuống dọc theo thân và các dây thần kinh của lá vào công cụ tự nhiên để lưu trữ tại đó cho tới khi được sử dụng cho các nhu cầu của con người. [dịch từ tiếng La tinh trong Pitcher-Plants of Borneo][20]

Một trong những hình minh họa đầu tiên về Nepenthes xuất hiện trong Almagestum Botanicum năm 1696 của Leonard Plukenet[26]. Loài được gọi trong đó là Utricaria vegetabilis zeylanensium, chắc chắn là N. distillatoria[20].

Cantharifera như được minh họa trong Herbarium Amboinensis của Rumphius, quyển 5, xuất bản năm 1747, mặc dù có lẽ đã được vẽ vào cuối thế kỷ 17. Dây leo ở bên phải không phải là Nepenthes, mà là một loài mây nước (Flagellaria).

Đó là vào cùng một khoảng thời gian mà nhà thực vật học người Đức là Georg Eberhard Rumphius phát hiện ra 2 loài Nepenthes mới tại khu vực quần đảo Mã Lai. Rumphius minh họa loài thứ nhất, hiện nay coi là đồng nghĩa với N. mirabilis, và đặt cho nó tên gọi Cantharifera, nghĩa là "[cây] mang cốc". Loài thứ hai, được gọi là Cantharifera alba, được cho là N. maxima. Rumphius đã miêu tả các loài cây này trong công trình nổi tiếng nhất của ông là Herbarium Amboinense gồm 6 quyển, một bảng liệt kê thực vật chí của đảo Ambon. Tuy nhiên, nó đã không được công bố nhiều năm sau khi ông mất[27].

Sau khi bị mù năm 1670, khi bản thảo mới chỉ hoàn thành một phần, Rumphius tiếp tục viết Herbarium Amboinensis với sự trợ giúp của các thư ký và các nghệ sĩ. Năm 1687, khi bản thảo gần như đã hoàn thành, thì ít nhất là một nửa các hình minh họa đã bị mất trong một vụ hỏa hoạn. Không nản chí, Rumphius và những người giúp việc ông lần đầu tiên hoàn thành cuốn sách năm 1690. Tuy nhiên, hai năm sau thì con tàu chở theo bản thảo này về Hà Lan đã bị người Pháp tấn công và đánh chìm, buộc họ lại phải bắt đầu từ bản sao mà may mắn thay vẫn còn được tổng thống sứ Johannes Camphuijs lưu giữ. Herbarium Amboinensis cuối cùng đã về tới Hà Lan năm 1696. Nhưng kể cả khi đạt được điều đó thì quyển 1 chỉ được xuất bản vào năm 1741, nghĩa là 39 năm sau khi Rumphius mất. Vào thời gian đó, tên gọi Nepenthes của Linnaeus đã được thiết lập[20].

Minh họa của Bandura zeylanica (N. distillatoria) từ sách Thesaurus Zeylanicus năm 1737 của Burmann.

Nepenthes distillatoria được minh họa lần nữa trong sách Thesaurus Zeylanicus năm 1737 của Johannes Burmann. Hình vẽ trong đó minh họa phần cuối của thân cây đang ra hoa với các ấm. Burmann gọi loài cây này là Bandura zeylanica[28].

Đề cập tiếp theo về các loài nắp ấm nhiệt đới được thực hiện năm 1790, khi giáo sĩ Bồ Đào Nha là João de Loureiro miêu tả Phyllamphora mirabilis, nghĩa là "lá hình bình kỳ diệu", từ Việt Nam. Mặc dù từng sống tại đất nước này trong khoảng 35 năm, dường như không chắc chắn là Loureiro đã quan sát được cây còn sống của loài này, do ông phát biểu rằng nắp là phần chuyển động, tích cực mở ra và khép lại. Trong tác phẩm nổi tiếng nhất của mình, Flora Cochinchinensis, ông viết[29]:

[...] đầu chỏm lá kết thúc trong một tua cuốn dài treo lơ lửng, xoắn lại ở đoạn giữa, từ đó treo một vật giống như chiếc bình, thuôn dài, bụng bình, với miệng nhẵn có mép lồi ra và một chiếc nắp gắn vào một bên, với bản chất của chính nó thì tự do đóng mở để nhận sương và lưu giữ nó. Thật là một công trình kỳ diệu của Chúa! [dịch từ tiếng Pháp trong Pitcher-Plants of Borneo][20]

Phyllamphora mirabilis cuối cùng đã được George Claridge Druce chuyển sang chi Nepenthes vào năm 1916[30]. Như thế, P. mirabilis là từ đồng nghĩa gốc của loài nắp ấm nhiệt đới phân bố rộng khắp này[13].

Miêu tả của Loureiro về chiếc nắp chuyển động được Jean Louis Marie Poiret nhắc lại năm 1797. Poiret đã miêu tả 2 trong số 4 loài Nepenthes đã biết vào thời gian đó: N. madagascariensis và N. distillatoria. Ông đặt tên cho loài thứ nhất tên gọi như hiện tại của nó và gọi loài thứ hai là Nepente de l'Inde, hay đơn giản là "Nepenthes của Ấn Độ", mặc dù loài này không có trên đại lục. Trong Encyclopédie Méthodique Botanique của Jean-Baptiste Lamarck, ông gộp cả miêu tả sau[21]:

Chiếc bình này rỗng, như tôi vừa mới nói, thường chứa đầy nước trong, và sau đó khép lại. Nó mở ra trong thời gian ban ngày và trên một nửa lượng chất lỏng biến mất, nhưng sự mất đi này được bù lại trong đêm, và sáng ngày hôm sau bình lại đầy và khép lại bởi nắp của nó. Đó là thức ăn của nó, và nó đủ cho trên một ngày bởi vì nó luôn luôn còn khoảng một nửa vào lúc đêm xuống. [dịch từ tiếng Pháp trong Pitcher-Plants of Borneo][20]

Nhà trồng Nepenthes trong Các vườn ươm Veitch, minh họa trong The Gardeners' Chronicle, 1872

Với sự phát hiện ra các loài mới và sự giới thiệu mẫu vật gốc vào châu Âu năm 1789 của Joseph Banks, sự quan tâm tới Nepenthes đã tăng lên trong suốt thế kỷ 19, lên tới đỉnh điểm trong cái gọi là "Kỷ nguyên vàng của Nepenthes" trong thập niên 1880[3][20]. Tuy nhiên, sự phổ biến của các loài cây này đã suy giảm trong đầu thế kỷ 20, trước khi gần như biến mất vào thời gian diễn ra Chiến tranh thế giới thứ hai. Điều này có thể thấy qua việc không có loài mới nào được miêu tả trong giai đoạn từ 1940 tới 1966. Sự phục hồi niềm quan tâm toàn cầu trong gieo trồng và nghiên cứu Nepenthes gắn liền với nhà thực vật học người Nhật là Shigeo Kurata, với công trình của ông trong thập niên 1960 và 1970 đã gây nhiều chú ý đối với các loài thực vật này[31].